Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 26/10

Hỡi Ðức Giê-hô-va, bởi vì kẻ thù nghịch tôi, xin lấy sự công bình của Chúa mà dẫn dắt tôi. Và ban đường bằng của Chúa trước mặt tôi. (Thi-thiên 5:8)

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 25/10

Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm theo. 
(Giăng 13:17)

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 24/10

Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu.
(Hê-bơ-rơ 5:8)

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 23/10

...là Ðấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành. 
(Tít 2:14)

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 12/10

Còn tôi khác nào cây ô-li-ve xanh tươi trong nhà Ðức Chúa Trời; Tôi nhờ cậy nơi lòng nhân từ của Ðức Chúa Trời đến đời đời vô cùng. 
(Thi-thiên 52:8)

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 9/10


Nhưng, hỡi Ðức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi; Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Ðấng làm cho tôi ngước đầu lên. 
(Thi-thiên 3:3)

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 8/10

Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bịnh; các ngươi sẽ đi ra và nhảy nhót như bò tơ của chuồng. (Ma-la-chi 4:2)

Bồn tắm của Đức Chúa Trời

Nước trong một cái hồ được mệnh danh là "bồn tắm của Chúa" trong như pha lê và không thay đổi trong suốt 7.500 năm qua.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh 7/10


Ðêm đã khuya, ngày gần đến; vậy chúng ta hãy lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy áo giáp sáng láng. (Rô-ma 13:12)

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Câu kinh thánh



Ðừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào. (Rô-ma 12:2)

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Biết Trời và thờ Trời!

Không có sự hiểu biết nào quý hơn và cao cả hơn là biết Ông Trời là ai? Ngài đã làm gì cho chúng ta? Ngài muốn chúng ta làm gì?



BIẾT LUẬT TRỜI

Trong mười điều luật Đức Chúa Trời truyền cho nhân loại tuân giữ có hai điều luật nổi bật mà người Việt chúng ta cần lưu ý: "Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác" và "Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất."

Có một Luật sư hỏi Chúa Giê-su:

- "Thưa thầy, trong luật pháp, điều răn nào là lớn hơn hết?"

Chúa Giê-su đáp: "Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết. Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình" (Ma-thi-ơ 22:35-39).

Luật Trời thứ nhất và lớn hơn hết là chúng ta phải yêu mến Đức Chúa Trời.

BIẾT TÁNH TRỜI

            Đức Chúa Trời đã tự bày tỏ chính mình Ngài cho nhân loại qua thiên nhiên và qua Kinh Thánh. Kinh Thánh là quyển sách duy nhất có ghi chép tất cả những gì chúng ta muốn biết về Trời và chương trình của Ngài. Qua Kinh Thánh chúng ta biết được thuộc tính của Trời.
"Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất" (Sáng thế ký 1:1). "Trước khi núi non chưa sinh ra, đất và thế gian chưa dựng nên, từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là Đức Chúa Trời" (Thi Thiên 90:2). "Vả, chẳng có một cái nhà nào không phải do có người dựng nên, mà Đấng đã dựng nên muôn vật, ấy là Đức Chúa Trời" (Hê-bơ-rơ 3:4).

"Chẳng hề có ai thấy Đức Chúa Trời, chỉ có Con Một ở trong lòng Cha là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết" (Giăng 1:1). "Ta là Đấng tự hữu hằng hữu" (Xuất Ai-cập 3:14).

            Đức Chúa Trời là Đấng Thần Linh. Ngài là Đấng hằng sống có thuộc tính vô hạn và vĩnh cửu, Ngài có bản tính khôn ngoan, thánh khiết, công bình, thiện hảo, chân thật và yêu thương. Thuộc tánh và bản tánh Ngài không hề thay đổi.

Hành động và lời nói của Ngài luôn luôn phù hợp với bản tính của Ngài.

BIẾT SỢ TRỜI

Chúa Cứu Thế dạy: "Đừng sợ kẻ giết thể xác rồi sau không làm gì được nữa. Song ta chỉ cho các ngươi biết phải sợ ai: phải sợ Đấng khi đã giết rồi, có quyền bỏ xuống địa ngục; phải, ta nói cùng các ngươi, ấy là Đấng các ngươi phải sợ" (Lu-ca 12:4-5).

Đức Chúa Trời là Đấng phán xét công bình. Dù sống hay chết, dù được thưởng hay bị phạt, không một người nào có thể chê trách sự phán xét công chính của Trời.

Đức Chúa Trời là Đấng đáng sợ, không thể coi thường.


BIẾT LÒNG TRỜI

           Lòng Trời thánh khiết nhưng lòng Trời cũng yêu thương và kiên nhẫn.

 "Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta (1 Giăng 4:7-10).

            "Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn" (2 Phi-e-rơ 3:9).


BIẾT VIỆC TRỜI LÀM

Đức Chúa Trời luôn luôn đi trước chúng ta. Ngài làm thay chúng ta những việc chúng ta không làm được. Ngài sáng tạo thế giới, và muôn vật cho chúng ta hưởng. Ngài lập ra chương trình cứu rỗi và thực hiện chương trình đó thay cho nhân loại. Ngài đã làm mọi việc tốt lành cho chúng ta.

"Hỡi các bạn, sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người giống như các ngươi; chúng ta giảng Tin Lành cho các ngươi, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó.
16 Trong các đời trước đây, Ngài để cho mọi dân theo đường riêng mình,
17 dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng" (Công vụ 14:15-17).


BIẾT THỜ TRỜI

"Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng" (Giăng 4:24). Loài người là sinh vật duy nhất trên thế giới biết tôn thờ. Nhưng nhiều người đang thờ các tạo vật thay vì thờ Đấng sáng tạo.

Kinh Thánh nhận xét, "Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được, vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm.


            Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng. Cho nên Đức Chúa Trời đã phó họ sa vào sự ô uế theo lòng ham muốn mình, đến nỗi tự làm nhục thân thể mình nữa, vì họ đã đổi lẽ thật Đức Chúa Trời lấy sự dối trá, kính thờ và hầu việc loài chịu dựng nên thế cho Đấng dựng nên, là Đấng đáng khen ngợi đời đời! A-men (Rô-ma 1:18-25).

Bạn biết không, thờ người và thờ các hình tượng do người tạo nên thay vì thờ Trời là chọc giận Đức Chúa Trời.

BIẾT CÓ NGÀY CHẦU TRỜI

Chúng ta cần biết chắc chỉ có một Đức Chúa Trời và một ngày kia chúng ta sẽ ứng hầu trước mặt Ngài để chịu Ngài phán xét. Sớm hay muộn hết thảy chúng ta đều phải chầu Trời. Có người bị phạt và có người được thưởng.

Kinh Thánh cảnh cáo, "Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn và nhìn xem những điềụ mắt mình ưa thích, nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét" (Truyền đạo 11:9).

Dĩ nhiên lời cảnh cáo nầy áp dụng cho tất cả mọi người. Sự phán xét của Đức Chúa Trời là chung thẩm và công bình. Không có toà án nào khác hơn, cũng không có cơ hội nào khác nữa. "Khá sữa soạn mà gặp Đức Chúa Trời ngươi!"

Kinh Thánh khẳng định chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất. Ngài sáng tạo, Ngài bảo tồn, Ngài cưú rỗi và Ngài phán xét. Chúng ta không nên lẫn lộn triết lý mơ hồ của người đời với chân lý rõ rệt của Trời.

Nhiều người Việt đã noi gương các dân tộc khác trở lại cùng Đức Chúa Trời đã đang 'làm vinh hiển Danh Ngài và vui hưởng chính mình Ngài mãi mãi."



Mong bạn BIẾT TRỜI VÀ THỜ TRỜI HÔM NAY.


Bạn có thể trực tiếp đến với Ngài bằng lời cầu nguyện chân thành và vắn tắt:

    Lạy Chúa Cứu Thế Giê-xu, con muốn được sự sống đời đời trong Ngài. Con xin đặt niềm tin nơi sự hi sinh của Ngài trên thập tự giá. Con muốn sống một cuộc đời có ý nghĩa. Xin Ngài tiếp nhận con làm con của Ngài để con được vào nước thiên đàng của Ngài. Nhân danh Chúa Giê-xu.  A-men.”


hyvong.com

Chỉ có trời mới cứu được!



Đứng trước những việc mà con người hoàn toàn không thể tự giải quyết, người Việt đều thốt lên câu nói: "Chỉ có Trời cứu!" Câu nói ngắn gọn nầy cho biết, từ trong sâu thẳm, người Việt tin có Ông Trời. Một Ông Trời đầy quyền năng. Một Ông Trời thương người và cứu người. Câu nói "Chỉ có Trời cứu" cũng nói lên sự tuyệt vọng của con người khi đối diện một nan đề quá lớn mà con người không thể tự cứu. Chỉ có Trời cứu, câu nói thật đúng, khi chúng ta suy nghĩ đến sự cứu rỗi linh hồn.


Từ xưa đến nay, loài người luôn luôn khắc khoải, tìm kiếm câu trả lời cho những vấn nạn sau đây: Tôi sống trên đời để làm gì? Tôi sẽ về đâu? Làm sao để tôi sống một đời sống có ý nghĩa? Làm sao để tôi có được đời sống thái an, không còn lo sợ sự chết hay bất trắc tương lai? Làm sao để tôi hưởng được sự sống đời đời?

Thật vậy, mục đích và ý nghĩa của đời sống là những vấn đề mà các triết gia băn khoăn, tìm kiếm câu trả lời.   Là những điều mà loài người không thể nào có câu trả lời thỏa đáng. Mặc dù khổ công đi tìm mục đích và ý nghĩa của đời sống, chúng ta vẫn không ngừng cảm thấy trống vắng, hụt hẫng. Mỗi người chúng ta đều nghiệm thấy có một khoảng trống, một cái hố tâm linh sâu thẳm - một "khoảng trống do Trời tạo ra" – trong linh hồn của mỗi người chúng ta. Của cải vật chất hay danh vọng cao sang cũng không lấp đầy được khoảng trống này. Những mối liên hệ với tha nhân, những cuộc giải trí, ngay cả những cái được gọi là giá trị đạo đức cũng không thể lấp đầy được sự trống vắng này. Cả tôn giáo, triết lý, những người quyết tâm tu luyện cũng không thể thoát ra được khoảng trống “định mệnh” trong mỗi chúng ta.
Nguyên nhân của sự thiếu vắng và hụt hẫng nầy là do con người đã đánh mất sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bên trong đời sống của chính mình! Khoảng trống nầy có kích cở “của một Ông Trời” và vì thế chỉ có Ông Trời mới có thể lấp đầy lại khoảng trống đó. Người Việt đã nhận thức phương cách duy nhất cho nan đề của loài người là "Chỉ Có Trời Cứu!" và "Phải Nhờ Trời!"

Tuy nhiên, trước khi chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm về giải pháp này, bạn và tôi cần nhận thức rõ về một nan đề mà mỗi người chúng ta đều cưu mang.

Nan Đề Của Nhân Loại: Tội Lỗi Phân Cách

Kinh Thánh xác nhận nan đề trầm trọng của nhân loại là tội lỗi.

Đây là nan đề của cả loài người chứ không phải của riêng một ai. Tội lỗi không những là một hành động nhưng còn là bản tính tự nhiên của loài người. Nói một cách khác, chúng ta đều là những tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời. Chúng ta không phải là tội nhân vì chúng ta phạm tội. Trái lại, chúng ta phạm tội vì chúng ta là những tội nhân!   Chúng ta được sinh ra với bản chất tội lỗi. Vua Đa-vít, nhà lãnh đạo nước Y-sơ-ra-ên thời Cựu ước đã nói rằng: "Tôi sinh ra giữa đời gian ác, được hoài thai trong cảnh tội ô" (Thi Thiên 51: 5). Vì là tội nhân từ trong trứng nước, sự vi phạm tội lỗi đến với chúng ta rất tự nhiên. Có nhiều điều không muốn nhưng chúng ta vẫn làm. Có những điều muốn nhưng chúng ta làm không được. Vì vậy, thật vô ích khi cho rằng giải pháp cho tất cả nan đề trong cuộc sống đến từ "nội tâm" chúng ta.   Theo Kinh Thánh, nan đề là từ "nội tâm" chúng ta mà ra. Kinh Thánh xác nhận sự thật, "Ai dò được lòng người, gian dối, bại hoại đến mức vô phương cứu chữa" (Giê-rê-mi 17: 9).

Chúng ta mang bản chất tội lỗi bẩm sinh.

Tội lỗi lan tràn trong đời sống và trong mọi việc chúng ta làm. Mọi nan đề trong xã hội ngày nay có thể truy được căn nguyên phát sinh từ chỗ con người đã khước từ đi theo đường lối của Đức Chúa Trời. Trở về vườn Ê-đen, là nơi xuất phát loài người, A-đam (tổ phụ nhân loại) đã làm một sự lựa chọn, và ông đã mang lại hậu quả tai hại, tạo di sản cho toàn nhân loại bước theo vết xe đổ của tổ phụ loài người.   Kinh Thánh giải thích, "Vì một A-đam phạm tội mà bao nhiêu người phải chết... Do tội của A-đam, mọi người bị kết án..." (La-mã 5: 12, 18).

Bạn có thể phản đối, "Điều này thật bất công! Tại sao tôi phải gánh lấy hậu quả vì tội người khác gây ra?" Có người nói, "Phải chi tôi là A-đam!" Nhưng nếu mỗi người có được cơ hội như tổ phụ A-đam, chúng ta cũng sẽ làm y như tổ phụ chúng ta đã làm. Thực vậy, không một ngày nào trôi qua mà chúng ta không đối diện cùng một trắc nghiệm như tổ phụ A-đam. Đức Chúa Trời cho chúng ta tự do lựa chọn giữa hai con đường riêng rẽ: một đường dẫn đến sự sống và một đường dẫn đến sự chết. Kinh Thánh dạy rằng: "Ngày nay, ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, sự phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống" (Phục truyền 30: 19). Nếu bạn chưa tin nhận Chúa là bạn đang chọn sai, bạn đang chọn con đường dẫn đến sự chết thay vì sự sống.

Chúng ta đều thiếu hụt tiêu chuẩn

Có người nói rằng: "Nhưng tôi đã sống một đời lương thiện. Tôi cố gắng sống tử tế và nhân ái với mọi người. Tôi sống căn cứ theo mười điều răn." Bạn là người tốt theo tiêu chuẩn loài người. So với người khác bạn có thể có phần tốt hơn. Bạn là người đáng khen. Nhưng theo tiêu chuẩn từ trời thì bạn chưa tốt đủ. Những lời khen của người khác không thể cứu rỗi bạn. Bạn còn thiếu hụt tiêu chuẩn. Nhiều người trên thế giới đang cố giữ các điều răn, giới luật tôn giáo, nhưng sự thật là mười điều răn, hay luật pháp trong Kinh Thánh, được ban cho không phải để làm cho con người tốt hơn, nhưng để chỉ cho chúng ta biết mình xấu tới mức nào!   Kinh Thánh hé mở cho chúng ta biết: "Chiếu theo luật pháp, chẳng ai được kể là công chính, vô tội trước mặt Đức Chúa Trời, vì luật pháp chỉ giúp con người biết mình có tội" (La-mã 3: 20).   Mục đích của luật pháp là giúp chúng ta nhận biết tình trạng bất toàn của mình. Bạn có thể nói rằng luật pháp được ban ra để "làm cứng họng" chúng ta và chỉ ra cho chúng ta biết chúng ta đang cần sự giúp đỡ và ơn tha thứ của Đức Chúa Trời về phần tâm linh như thế nào.

Hãy đọc những đoạn kinh văn dưới đây để bạn biết hơn về bản chất và tầm nghiêm trọng của tội lỗi.

1. Tất cả mỗi người chúng ta đều thiếu hụt tiêu chuẩn.
"Vì mọi người đều đã phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời." La-mã 3:23.

Kinh Thánh dạy rằng: "Tất cả chúng ta đều phạm tội, thiếu hụt sự vinh hiển của Đức Chúa Trời." Với những ai cho mình ngoại lệ với chân lý này, Kinh Thánh đã nói rõ ràng: "Không một người nào tốt lành - dầu chỉ một người cũng không" (La-mã 3: 10). Từ ngữ khác chỉ về tốt lành là công chính. Từ công chính có nghĩa "người công bình, đạo đức."   Khi Kinh Thánh tuyên bố rằng không có một người công chính, hay tốt lành, thật ra Kinh Thánh không đề cập nhiều đến cách cư xử bên ngoài nhưng đề cập đến tư cách bên trong. Kinh Thánh phơi bày chúng ta ra trước tiêu chuẩn toàn hảo của Chúa.

Chúa Jêsus dạy rằng: "Các con phải toàn hảo như Cha các con trên trời" (Ma-thi-ơ 5: 48). Người nào không toàn hảo như Đức Chúa Trời thì không được Chúa tiếp nhận. "Nhân vô thập toàn." Chỉ có một người duy nhất toàn hảo là Chúa Cứu thế Giê-su.

Một định nghĩa về tội lỗi bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp, từ hamartia, nghĩa là "trật mục tiêu".   Chúng ta tất cả đều bắn trật mục tiêu.   Mặc dầu bản chất tội lỗi khiến chúng ta khó lòng sống đúng theo tiêu chuẩn của Chúa, nhưng chúng ta không thể đổ lỗi cho bản chất tội lỗi. Bởi vì tội lỗi là hành động chủ ý của mỗi người chúng ta.

2. Tội lỗi là hành động chủ ý của chúng ta
"Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác."  (Ê-phê-sô 2:1-3).


Tội lỗi là một hành động cố tình cố ý của bản thân mỗi người chúng ta. Một từ khác chỉ về tội lỗi trong thư tín Ê-phê-sô là "lầm lỗi và tội ác." Từ này nói lên sự lệch lạc hoặc lạc lối khỏi đường ngay thẳng. Đối lại với từ ‘’thiếu hụt’’, đây là một hành động cố tình cố ý. Vì cớ tội lỗi là hành động cố tình cố ý, chúng ta không thể đổ lỗi cho người khác hoặc quy lỗi cho môi trường xã hội chúng ta đang sống. Tất cả mọi người đã chọn làm sai theo ý riêng của mình. Nếu chúng ta phản đối điều này, "chúng ta tự lừa dối mình và không chịu nhìn nhận sự thật" (1 Giăng 1: 8).

3. Hình phạt tối hậu của tội lỗi là sự chết
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta. (La-mã 6:23).

Sự trừng phạt tối hậu dành cho tội lỗi là sự hủy diệt (La-mã 6: 23). Căn cứ theo Thánh Kinh, chúng ta đã phạm tội với một Đức Chúa Trời thánh khiết.   Chúng ta đã vi phạm luật thánh của Chúa. Không những chúng ta vi phạm một, hai lần, nhưng chúng ta đã vi phạm nhiều lần đến nỗi chúng ta không nhớ hết được. La-mã 6: 23 cảnh báo rằng: "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết...".   Tiền công là những gì ta nhận được sau khi làm xong công việc. Nói cách khác, bạn kiếm được tiền công khi làm xong công việc trong ngày. Vì mỗi chúng ta tiếp tục phạm tội, chúng ta sẽ gánh lấy tiền công là sự chết, là sự đày đọa và trừng phạt đời đời ở một nơi được gọi là hỏa ngục

Mặc dầu Kinh Thánh chỉ rõ hậu quả của tội lỗi là sự chết, Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết chúng ta có tin mừng. Đức Chúa Trời quyết định cứu người. Ngài đã mở một con đường sống để chúng ta thoát khỏi án phạt tội lỗi. Ngài đã tạo điều kiện để chúng ta có mối liên hệ với Ngài và hưởng được một đời sống vĩnh cửu mà không bị trừng phạt.

Đây là giải pháp từ trời. Chúng ta đã thừa nhận có những việc chỉ có Trời cứu. Việc Trời cứu quả thật là một tin mừng.

Giải Pháp Của Đức Chúa Trời: Con Trời Giáng Thế.

Đức Chúa Trời biết rõ nan đề của chúng ta. Ngài cũng biết chúng ta không có cách gì để tự giải quyết nan đề này. Vì yêu chúng ta, Ngài đã gửi Con Một của Ngài, là Đức Chúa Jêsus Chríst, xuống thế gian để làm nhịp cầu bắt nối chúng ta trở lại với Ngài.

Tại sao Chúa Jêsus có thể làm nhịp cầu nối lại sự gián đoạn?  
                        
Trong lịch sử nhân loại, không có một ai như Chúa Jêsus. Vào đời, Ngài được thụ thai không như những hài nhi khác theo tính cách thông thường tự nhiên. Trái lại, Ngài được thụ thai cách siêu nhiên trong lòng một trinh nữ người Do Thái có tên là Ma-ri. Vì sự thụ thai siêu phàm đó, Chúa Jêsus, là một Đức Chúa Trời thánh khiết toàn vẹn, đã trở thành một người toàn vẹn.

Dầu Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, Ngài đã chọn từ giã đời sống thiên đàng để đến sống trên đất như một con ngưòi. Mô tả sự hy sinh của Chúa Cưú Thế, Kinh Thánh chép rằng Ngài "tình nguyện từ bỏ tất cả, mang thân thể con người, cam chịu thân phận người nô lệ. Ngài đã xuất hiện như một người khiêm tốn, đi con đường vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự" (Phi-líp 2: 7-8). Điều quan trọng là Chúa Jêsus vẫn tiếp tục là Đức Chúa Trời khi Ngài xuống thế gian, mang xác thịt con người. Là Đức Chúa Trời Ngài vô tội, toàn năng và biết hết mọi sự. Là người Ngài có kinh nghiệm sống giống như chúng ta. Ngài có thể kinh nghiệm những cảm xúc của con người, từng trải từ sự vui mừng đến những đau khổ tột cùng.   Ngài bị mệt mỏi, lạnh lẽo, đói khát. Ngài khóc, buồn, vui. Ngài vừa là Trời vừa là người.

Hơn thế nữa, Ngài đến thế gian này với một mục đích rõ ràng: làm nhịp cầu giữa con người với Đức Chúa Trời.

Khi dân Do Thái trong thời Cựu Ước phạm tội, họ có thầy tế lễ thượng phẩm vào đền thờ và dâng con sinh tế cho Đức Chúa Trời để chuộc tội cho họ. Trong cách tượng trưng này luật Trời cho phép đổ tất cả tội của con người vào con sinh tế, để con vật chết thay cho con người. Kinh Thánh dạy rằng, "Nếu không đổ huyết, tội lỗi chẳng bao giờ được tha thứ." (Hê-bơ-rơ 9: 22).

Hình bóng của sự dâng tế lễ được dân Y-sơ-ra-ên thực hiện trong thời Cựu Ước là hình bóng những gì Chúa Jêsus sẽ phải thực hiện khi Ngài đến thế gian này. Ngài đã gánh vác tội lỗi của toàn nhân loại trên thân thể của Ngài khi Ngài bị treo trên cây thập tự. Rất nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước không những chỉ về sự giáng sinh và đời sống của Ngài nhưng cũng nói đến sự chết và cách chết của Ngài nữa.

Chúa Jêsus đã biết từ lúc ban đầu rằng Ngài đến để chịu chết cho tội lỗi của toàn thể nhân loại. Ngài cũng biết rằng sự hy sinh này sẽ xảy ra trên thập tự giá của người La-mã. Ngài bắt đầu cuộc hành trình cuối cùng đến thập tự giá từ nơi được gọi là Sê-sa-rê Phi-líp, và từ đây Ngài thường nhắc nhở với các môn đồ về nhục hình đang chờ đợi Ngài. Kinh Thánh ghi chép lại: "Từ lúc đó, Chúa Jêsus nói rõ cho các môn đệ biết chương trình Chúa lên thủ đô Giê-ru-sa-lem, chịu nhiều đau khổ do các nhà lãnh đạo Do Thái, và bị giết, nhưng ba ngày sau sẽ sống lại" (Ma-thi-ơ 16: 21).

Cuối cùng Ngài bị bắt vì sự phản bội của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai môn đồ của Ngài.   Nhưng đó không phải là một điều ngẫu nhiên. Nếu nhân loại sẽ phải đối diện với Đức Chúa Trời và bức tường ngăn cách với Chúa phải được hủy bỏ, thì phải có một cái gì đó lớn lao xảy ra. Sự hy sinh mạng báu của Con Một Đức Chúa Trời. Nói cách khác, trên thập tự giá một tay Chúa Jêsus nắm chặt lấy Đức Chúa Trời thánh khiết, cánh tay kia Ngài níu kéo toàn thể nhân loại tội lỗi. Khi những cây đinh tàn nhẫn xoáy vào tay Ngài, Chúa đã san bằng vực sâu ngăn cách cho nhân loại.

Tuy nhiên, phải nhớ rằng ba ngày sau khi chịu thập hình, Chúa Jêsus đã sống lại từ cõi chết! Nếu đúng là không ai có thể làm cho một người công bình ngã gục, thì lại càng đúng hơn không ai có thể kéo Con Trời gục ngã.

Chúng ta đã đóng đinh Chúa Cứu Thế trên thập tự giá

Sự cần thiết của Chúa Jêsus chết trên thập tự giá cho thấy tình trạng sa sút, nổi loạn của loài người là như thế nào. Người ta nói rằng bởi sợi dây dài mới biết được giếng sâu tới bao nhiêu. Khi nhận thức được sợi dây từ thiên đàng thòng xuống thế giới nầy dài bao nhiêu, chúng ta mới nhận thức được tình trạng khốn đốn của loài người bấy nhiêu.

Vì lý do đó, đừng trách cứ người thời xưa đã giết Chúa Jêsus trên thập tự giá. Chúng ta cũng có tội lỗi y như họ vậy. Trên thực tế, người đóng đinh Chúa Jêsus trên thập tự giá không phải là những người lính La-mã, hay những nhà lãnh đạo Do Thái nhưng chính tội lỗi của chúng ta đã khiến cho nhục hình và sự chịu chết đau thương của Ngài trở nên cần thiết. Mỗi người đều có thể nói, "Chúa chết vì tội lỗi của chính tôi!"

Hãy đọc những đoạn kinh văn và ghi chú dưới đây để hiểu một cách tỏ tường những gì Chúa Jêsus đã làm cho nhân loại chúng ta.

1. Sự minh chứng rõ ràng nhất về tình yêu
Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội... Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết. (La-mã 5: 6-8).

Chúa Jêsus không chết cho chúng ta trong khi chúng ta đang là bạn thân của Ngài, nhưng trong khi chúng ta đang là kẻ thù nghịch, chống trả Ngài bởi tội lỗi của chúng ta. Chưa hết, Đức Chúa Trời còn chứng tỏ tình yêu của Ngài với chúng ta bởi sự chịu chết trên thập tự giá. Trong đoạn kinh văn này, sứ đồ Phao Lô giải thích rằng Chúa Jêsus không chỉ đơn giản chết thay cho toàn nhân loại, nhưng Ngài đã chịu chết cho mỗi cá nhân chúng ta. Trong Ga-la-ti 2: 20, Phao-lô làm chứng rằng, "Ngài đã yêu thương tôi và dâng hiến mạng sống Ngài vì tôi."

Có khi nào bạn nghi ngờ tình yêu của Chúa, hãy nhìn thật kỹ thập tự giá mà Chúa Jêsus đã bị treo thân.   Rồi hãy nhận thức một cách thực tế rằng, không phải những cây đinh đã đóng Chúa trên thập tự mà chính là tình yêu. Chúa chịu chết vì yêu bạn và tôi.

2. Chúa chịu nhục hình để chúng ta có thể được tha thứ
Bác sĩ Lu-ca đã tường thuật một phần chuyện tích Chúa chịu đóng đinh cách sống động như sau:
"Chúng cũng đem hai người đi nữa, là kẻ trộm cướp, để giết cùng với Ngài. Khi đến một chỗ gọi là chỗ Sọ, họ đóng đinh Ngài trên cây thập tự tại đó, cùng hai tên trộm cướp, một tên bên hữu Ngài, một tên bên tả. Song Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì. Đoạn, họ bắt thăm chia nhau áo xống của Ngài.

Dân chúng đứng đó mà ngó. Các người coi việc nhạo cười Ngài, rằng: Nó đã cứu kẻ khác; nếu nó là Đấng Christ, Đấng Đức Chúa Trời đã lựa, thì hãy cứu mình đi! Quân lính cũng giỡn cợt Ngài, lại gần đưa giấm cho Ngài uống, mà rằng: Nếu ngươi là Vua dân Giu-đa, hãy tự cứu lấy mình đi! Phía trên đầu Ngài, có đề rằng: Người Nầy Là Vua Dân Giu-đa.

Vả, một tên trộm cướp bị đóng đinh cũng mắng nhiếc Ngài rằng: Ngươi không phải là Đấng Christ sao? Hãy tự cứu lấy mình ngươi cùng chúng ta nữa! Nhưng tên kia trách nó rằng: Ngươi cũng chịu một hình phạt ấy, còn chẳng sợ Đức Chúa Trời sao? Về phần chúng ta, chỉ là sự công bình, vì hình ta chịu xứng với việc ta làm; nhưng người nầy không hề làm một điều gì ác. Đoạn lại nói rằng: Hỡi Jêsus, khi Ngài đến trong nước mình rồi, xin nhớ lấy tôi! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi.

Khi đó, ước giờ thứ sáu, khắp xứ đều tối tăm cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên tối, và màn trong đền thờ xé chính giữa ra làm hai. Đức Chúa Jêsus bèn kêu lớn rằng: Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha! Ngài vừa nói xong thì tắt hơi.

Thầy đội thấy sự đã xảy ra, ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: Thật người nầy là người công bình. Cả dân chúng đi xem, thấy nông nổi làm vậy, đấm ngực mà trở về." (Lu-ca 23: 32-49).

Nhiều người trong chúng ta đã được nghe qua câu chuyện này vào một thời điểm nào đó trong đời. Nhưng điểm đáng chú ý phía sau hậu trường thường bị thiếu sót hay dễ hiểu lầm. Đây khộng chỉ đơn thuần là một "thầy giáo có lòng thương người" bị thập hình vì đức tin của mình. Đây chính là Đức Chúa Trời trong thân thể con người bị treo trên cây thập tự, làm nhịp cầu nối liền giữa loài người tội lỗi và Đức Chúa Trời thánh khiết.

Phúc Âm Ma-thi-ơ 27: 46 ghi lại rằng khi Chúa Jêsus bị treo trên thập tự giá, Ngài đã kêu lớn: "Đức Chúa Trời ôi! Đức Chúa Trời ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?" Nhiều nhà giải kinh tin rằng những lời kêu thống thiết đó đã đánh dấu giây phút rõ ràng Đức Chúa Trời đã đặt tội lỗi của toàn thể nhân loại trên thân Con Một của Ngài. Sách Ha-ba-cúc 1: 13 nói về Đức Chúa Trời thánh khiết, đã ghi lại:"Mắt Chúa quá tinh sạch không thể nhìn chuyện gian ác, xấu xa." Vì lý do đó, Đức Chúa Cha thánh khiết đã phải "ngoảnh mặt" và trút đổ cơn thịnh nộ của Ngài vào Con Một của mình. Trên thập tự giá, Chúa Jêsus đã trả thay món nợ máu cho chúng ta. Ngài bị khước từ để chúng ta có thể được Đức Chúa Trời tiếp nhận.   Đức Chúa Cha đã làm ngơ Con Trời trong một gian đoạn để chúng ta không bao giờ bị lãng quên.

3. Chúa Cưú Thế, Đấng Hoà Giải duy nhất
Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người; Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. (1 Ti-mô-thê 2: 5-6).

Tại sao chỉ có một đấng hoà giải duy nhất đủ quyền năng làm nhịp cầu bắt nối giữa người và Trời? Đã không có những nhà lãnh đạo tôn giáo cho rằng mình có giải pháp để đưa nhân loại đến với Đức Chúa Trời sao? Sự thật hiển nhiên là không có một giáo chủ nào vừa là Đức Chúa Trời trọn vẹn vừa là con người hoàn toàn. Đó là lý do tại sao Chúa Jêsus có đầy đủ tiêu chuẩn để đối phó với tội lỗi. Chúa Jêsus phán rằng: "TA là Con đường, Chân lý, và Nguồn sống. Nếu không nhờ TA, không ai được đến với Cha" (Giăng 14: 6). Công vụ 4: 12 dạy rằng: "Ngoài Chúa Jêsus, không ai có quyền năng cứu rỗi loài người, vì dưới bầu trời này, chúng ta không thể kêu cầu danh nào khác để được cứu rỗi." Và quan trọng hơn hết, Chúa Jêsus Chríst đã sống lại từ cõi chết.

Đây là lúc bạn phải quyết định. Không ai quyết định thay cho bạn được. Đây là lúc bạn phải lựa chọn, không ai lựa chọn thay cho bạn được. Đây là lúc bạn phải làm. Không ai làm thay cho bạn được. Bạn phải trả lời, không ai trả lời thay cho bạn được.


Bạn đã biết nan đề duy nhất của loài người là tội lỗi. Bạn đã biết giải pháp duy nhất cho nan đề của loài người là Chúa Cứu Thế chịu chết đền tội trên thập tự giá. Bạn đã biết cách duy nhất bạn được tha tội là nhờ tin cậy Chúa Giê-su là Đấng đã chết và sống lại vì bạn. Bạn bằng lòng ăn năn tội và mở lòng tiếp nhận Chúa bước vào đời sống. Bạn đã được cứu rỗi. Bạn đã được nhận làm con của Đức Chúa Trời.

Hiện nay, bạn đang sống trong đức tin. Bạn đang sống trong hy vọng. Và nhờ sự sống của Chúa tuôn chảy trong lòng, bạn đang sống yêu thương: bạn đang yêu Chúa, yêu người. Bạn đang sống chờ đợi ngày đoàn tụ với Chúa trên thiên đàng. Bạn đang được Chúa dùng để đem nhiều người khác về nhà Chúa. Bạn có thể biết chắc và tuyên bố rằng: TÔI ĐÃ ĐƯỢC TRỜI CƯÚ! A-men.

hyvong.com

TIN LÀNH CHO NGƯỜI VIỆT NAM



Từ chỗ không chịu khó tìm hiểu đến nơi, nhiều người Việt Nam đã có những hiểu lầm đáng tiếc đối với Đạo Tin Lành, thậm chí nhiều người không biết đến Tin Lành là gì.


Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin Đạo Tin Lành.”

Lời Chúa Cứu Thế Giê-xu.

       Người Việt Nam là một trong những dân tộc chịu nhiều đau khổ nhất trên thế giới. Thảm trạng chiến tranh, nghèo thiếu, và nhiều điều khác… là những nỗi đau khó phai mờ trong lòng những người liên hệ. Nhưng người Việt Nam cũng là dân tộc có đức tính chịu đựng, mau khoan dung tha thứ, có sức mạnh tinh thần kiên cường bất khuất, có truyền thống gia đình hiếu thảo tốt đẹp. Người Việt Nam cũng là một dân tộc “tâm linh” vào hàng đầu của nhân loại. Phần lớn người Việt Nam đều có đạo và sùng đạo, khi đã có đạo của ông bà cha mẹ để lại trong gia đình thì thường giữ theo, cho là đủ, không muốn tìm hiểu các đạo khác, không để ý nhận xét đâu là chân lý, đâu là đường duy nhất mình phải vâng theo.
       Từ chổ không chịu khó tìm hiểu đến nơi, nhiều người Việt Nam đã có những hiểu lầm đáng tiếc đối với Đạo Tin Lành, thậm chí nhiều người không biết đến Tin Lành là gì. Nhầm mục đích giải tỏa những hiểu lầm và trình bày sự chân chính của Đạo Tin Lành, chúng tôi kính mong quý vị lấy khách quan suy xét những điều chúng tôi chân thành phát biểu sau đây:

1. Có phải theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà?

       Câu trả lời khẳng định là: KHÔNG, xin được giải bày như sau:

       Nhiều người Việt Nam vì chưa tìm hiểu rõ nên đã vội cho rằng theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà. Đây là thành kiến không đúng do hiểu lầm cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên. Người Tin Lành biểu lộ sự hiếu thảo với ông bà cha mẹ chủ yếu khi ông bà cha mẹ còn sống, còn khi ông bà cha mẹ qua đời thì con cháu lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm của Hội Thánh trong tinh thần tiếc thương, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không van vái, không cúng bái người đã chết. Có lẽ vì người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như những người Việt Nam khác nên  một số đồng bào cứ lầm tưởng như vậy là bỏ ông bỏ bà, thậm chí có người cho là bất hiếu.

         Đạo nào cũng dạy con người biết hiếu kính ông bà cha mẹ vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại. Đạo Tin Lành là Đạo KÍNH CHÚA – YÊU NGƯỜI, lấy Lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng chuyên tâm dạy dỗ, khuyên bảo tín hữu và con em mình hết lòng hiếu kính ông bà cha mẹ đúng như lời Chúa dạy. Sở dĩ người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố là vì vấn đề niềm tin cùng lý do thực tế.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Đức Chúa Trời dạy rõ: “Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi mới được sống lâu trên đất Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ban cho.” (Xuất hành 20:12) và “Ai đánh cha mẹ, phải bị xử tử”, “Ai chửi rủa cha mẹ, phải bị xử tử. ” (Xuất hành 21:15,17). Trong Kinh Thánh Tân Ước, Chúa Giê-xu đã lên án thái độ giả hình cũng những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ. Thánh Phao-lô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như là tội ác của nhân loại. Ông khuyên “con cháu trước phải học làm điều hiếu thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ” (I Ti-mô-thê 5:4). Ông cũng nhắc lại điều răng Chúa dạy: “Phải hiếu kính cha mẹ” là điều răn đều tiên có kèm theo lời hứa, “nhờ đó con mới được phúc và sống lâu trên đất. ” (Ê-phê-sô 6:1-3). Nói cách khác, một người Tin Lành muốn được phước và sống lâu trên đất phải biết thực lòng hiếu kính cha mẹ theo như lời Chúa dạy.

       Thế tại sao người Tin Lành không cúng bái, không thờ lại ông bà cha mẹ quá cố? Người Tin Lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tiền nhân để lại nhưng những phong tục nào không phù hợp với Lời Chúa dạy thì người Tin Lành không dám vâng theo.

Thánh Kinh đã dạy rõ các tín hữu Tin Lành: “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng, vì bông trái của sự sáng láng ở tại mọi điều trong nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi cho vừa lòng Chúa và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm.” (Ê-phê-sô 5:8-11). Dựa trên lời Chúa dạy, người Tin Lành phải hết lòng thành thật yêu thương cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già sức yếu đồng thời tôn kính tổ tiên, giữ danh thơm tiếng tốt cho gia đình, dòng họ. Người Tin Lành quan niệm chữ hiếu chỉ có giá trị đích thực khi con cháu bày tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp công ơn cha mẹ khi các cụ còn sống. Một món ăn ngon lúc đói lòng; một cái áo ấm khi trời lạnh; một lon sữa; thuốc men khi ốm đau; một lời thăm hỏi ân cần khi buồn bã mà con cháu dâng tặng ông bà cha mẹ lúc các cụ còn sống, thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm cao cỗ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất. Khi các cụ qua đời thì lập tức bước vào một thế giới khác do Chúa định. Trường hợp nếu các cụ đã tin thờ Chúa thì được về ngay với Chúa hưởng nước thiêng đàng. Chúa Giê-xu phán: “Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.” (Ma-thi-ơ 25:34). Nếu các cụ trước kia không tin thờ Chúa thì nay chờ ngày Chúa phán xét công bình như Kinh Thánh khẳng định:“Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét.” (Hê-bơ-rơ 9:27). Ông bà cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao nhiêu đi nữa, một khi đã qua đời thì không liên lạc gì với trần gian, không có quyền ban phước hay giáng họa, không nhận hưởng được lễ vật gì cũng không giải quyết được vấn đề gì từ sự cúng bái hay van vái của chúng ta. Tất cả những phước hạnh tươi đẹp đó chúng ta đã có, đang có và sẽ có được, đều hoàn toàn do chính Đức Chúa Trời ban cho mà thôi. Chúng ta đang phải hết lòng biết ơn Ngài và vâng lời Ngài mới là phải lẽ.

       Người xưa có câu mỉa mai, “Sống không cho ăn, chết làm cỗ, làm văn tế ruồi”. Như thế người xưa cũng thực tế lắm thay! Có bậc cha mẹ nào dạy: “Lúc cha mẹ còn sống, con không cần quan tâm phụng dưỡng, chỉ cần khi cha mẹ chết, mỗi năm lo cúng kiến một lần là được?” Không bao giờ có bậc cha mẹ nào dạy như thế cả. Vả lại khi con cháu cúng giỗ, không hề có chuyện người chết về ăn, chỉ có người sống ăn uống với nhau, đôi khi trở thành nhậu nhẹt, rồi sanh cãi cọ, rầy rà thắc mắc không hay. Giả sử người chết có về hưởng được của cúng thì liệu người sống có còn bình tĩnh ngồi ăn không? Nếu bảo phải thắp nhang đèn, phải lập bàn thờ bài vị, phải cúng giỗ theo lối cổ truyền mới có hiếu, thế thì có bao nhiêu dân tộc châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và cũng có những người Việt Nam khác thấy không cần thiết làm như vậy, thì bất hiếu cả sao? Trong cả năm, con cháu không cúng quảy thì người chết lấy gì ăn, lấy gì hưởng để chờ ngày cúng giỗ?

       Vì quan niệm như vậy, nên người Tin Lành không cúng giỗ. Khi có họp mặt truyền thống gia đình, người Tin Lành thường nhắc đến công ơn ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Chúa ban bình an, sức khỏe cho người thân còn sống, rồi cùng ăn uống vui vẻ thật thà. Người Tin Lành phải tôn trọng và thường xuyên thăm viếng chăm sóc mồ mả của ông bà cha mẹ, người thân. Do ảnh hưởng của Lời Chúa dạy mà các nghĩa trang của nước Âu Mỹ theo đạo Tin Lành được chăm sóc chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công viên đầy hoa lá. Người Tin Lành phải tôn trọng tình bà con ruột thịt, sẵn sàng yêu thương giúp đỡ bà con và những ai đang cần giúp đỡ, những vấn đề gì liên quan đến tín ngưỡng, đức tin thì không dám làm trái Lời Chúa dạy.

Mặt khác, thử xem phong tục về thờ cúng. Trên bàn thờ tổ tiên hầu hết chỉ thấy thờ Cha Mẹ, Ông Bà, còn từ Cố Sơ trở lên thì gần như không thấy thờ và cũng không có giỗ kỵ. Người Tin Lành tin rằng loài người phải hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh mới là thờ thật đầy đủ. Ngài là Đấng Tạo Hóa và bảo tồn muôn loài vạn vật, cũng là Đấng cầm quyền họa phước trên đời sống chúng ta. Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới gốc cây là tưới được cả cây, chứ không phải chỉ tưới cành, tưới ngọn. Vả lại, người Tin Lành rất kính sợ điều răn Chúa dạy: “Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Ta.” (Xuất Hành 20:3).

       Như vậy, quý vị thấy người Tin Lành là người hiếu thảo theo phương cách đúng và thực tế không bỏ ông bỏ bà. Mong quý vị mau trở lại thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần, như người con đi xa trở về nhà cha, vâng lời Thiên Phụ chúng ta. Đó mới là hiếu thật, đó mới là sự thờ phượng đẹp lòng Chúa, và ích lợi cho bản thân vậy.

2. Có phải Đạo Tin Lành là Đạo của Người Mỹ?

Câu trả lời là: KHÔNG, xin được giải bày như sau:

Châu Mỹ mới được khám phá năm 1492 và nước Mỹ mới lập quốc năm 1776, nghĩa là hơn 200 năm, trong khi Đạo Tin Lành đã có từ 2000 năm nay, như vậy không thể nói Đạo Tin Lành là Đạo Mỹ được.

Trên thế giới, có một số dân tộc có tôn giáo riêng như Ấn Độ có Ấn Độ Giáo, Nhật Bản có Thần Giáo Shinto, Do Thái có Do Thái Giáo, nhưng Đạo Tin Lành không là Đạo riêng của một dân tộc nào. Đạo Tin Lành là tin tức tốt lành của Đức Chúa Trời dành cho toàn thể nhân loại không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, phái tính. Đạo Tin Lành thích hợp với mọi dân tộc ở khắp mọi nơi trên thế giới. Đạo Tin Lành có gốc rễ phát sinh từ nước Do Thái nhưng không phải là Đạo của người Do Thái. Phần đông người Mỹ theo Đạo Tin Lành nhưng Đạo Tin Lành không phải là Đạo Mỹ. Đạo Tin Lành thịnh hành ở châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và nhiều nước ở châu Phi. Gần đây Đạo Tin Lành phát triển mạnh ở Đại Hàn và Nam Mỹ. Theo một bảng thống kê chính xác, thì hiện nay một phần ba nhân loại trên thế giới đang tôn thờ Chúa Cứu Thế Giê-xu. Khoảng 86% người Mỹ, người Canađa và người Úc đều tin theo Chúa. Kết quả hiển nhiên do Đạo Tin Lành đem lại cho các quốc gia, các gia đình và từng đời sống con người đã chứng minh giá trị ưu việt và cụ thể của Đạo Tin Lành.

Trên thực tế, không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng hợp giữa 50 quốc gia nghèo nhất trên thế giới cũng là những quốc gia có ít người tiếp nhận Tin Lành nhất. Trong các quốc gia này ước tính có khoảng 2,3 tỷ người chưa tiếp nhận Chúa. Một tác giả đã đi đến một kết luận sau đây sau khi quan sát hiện trạng các quốc gia nghèo nhất trên thế giới: “The poor are lost and the lost are poor” (tạm dịch, những người nghèo khổ là những người chưa biết Chúa và những người chưa biết Chúa là những người nghèo khổ.) Mức sống của một quốc gia thường được định mức theo tuổi thọ trung bình, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỉ lệ xóa nạn mù chữ. Hầu hết các quốc gia có mức sống thấp nhất là những quốc gia có ít người thờ Chúa nhất. Trái lại hầu hết các quốc gia có mức sống cao nhất là những quốc gia có nhiều người thờ Chúa nhất.

Thật ra, Đạo Tin Lành bắt đầu từ khi Chúa Giê-xu giáng sinh tại thành Bết-lê-hem, nước Do Thái. Trong đêm Đấng Cứu Thế ra đời, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đã hiện đến loan báo tin mừng cho nhân loại: “Đừng sợ chi, vì nầy Ta báo cho các ngươi một Tin Lành sẽ là sự vui mừng lớn cho muôn dân…” (Lu-ca 2:9). Chính sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế đã chia đôi dòng lịch sử nhân loại thành ra Trước Chúa và Sau Chúa. Niên hiệu cả thế giới đang dùng được tính từ năm Chúa Cứu Thế giáng sinh. Sau khi chịu chết vì tội nhân loại trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã từ cõi chết sống lại, chiến thắng tử thần. Rồi trước khi về trời Ngài đã truyền lệnh cho các môn đồ,“Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người. Ai tin và chịu Báp-tem sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị kết tội.” (Mác 16:15,16). Dưới sự tác động của quyền phép Đức Thánh Linh, các môn đồ đã vâng lệnh Ngài đem Tin Lành truyền bá khắp nơi trên thế giới, chiến thắng tối tăm, sợ hãi, biến đổi hẳn khuôn mặt văn hóa của thế giới, thay đổi hẳn số phận hẩm hiu của biết bao nhiêu cuộc đời.

Năm 1911, Đạo Tin Lành mới được truyền bá đến Việt Nam do các Giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp ở Bắc Mỹ, kết quả thành lập được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Vào các thập niên 60 và 70, các Hội Truyền Giáo Tin Lành khác lần lượt đến truyền giáo tại Việt Nam và thành lập các Hội Thánh Báp-tít, Mennonite. Ngay từ những năm tháng đầu tiên, người Tin Lành ở Việt Nam đã sớm tiến đến tinh thần tự lập, tự trị và tự truyền bá Tin Lành cho đồng bào Việt Nam.

Người đặt ra câu hỏi trên đây dường như có ý muốn nói rằng Đạo Tin Lành là Đạo của người Mỹ, chúng ta là người Việt Nam thì theo Đạo của người Việt Nam. Thật ra, những truyền thống tôn giáo mà nhiều người Việt Nam đi theo cũng không phát xuất từ Việt Nam. Nho Giáo và Lão Giáo xuất phát từ người Trung Quốc, Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ và được truyền đến nước ta chủ yếu qua ngả Trung Quốc. Thời xưa, khi phương tiện giao thông với thế giới bên ngoài còn hạn chế, người Việt Nam chưa có cơ hội tiếp xúc với nền văn hóa Cơ Đốc Giáo, nhưng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa Trung Quốc. Thậm chí chữ viết của người Việt Nam xưa kia cũng viết theo lối Hán Tự; học thì học Tứ Thư, Ngũ Kinh của người Trung Quốc. Vì bị người Trung Quốc đô hộ hàng ngàn năm, nên cả nền văn hóa lẫn truyền thống tôn giáo của người Việt Nam đã chịu ảnh hưởng theo người Trung Quốc là chuyện không tránh khỏi. Nhưng người Việt Nam là một dân tộc bất khuất, luôn tiếp thu cái tốt của các dân tộc khác để biến thành cái hay cái tốt của mình. Vì vậy, không người Việt Nam nào theo Phật Giáo nói rằng tôi theo Đạo Ấn Độ, cũng không người Việt chịu ảnh hưởng Nho Giáo nói rằng tôi theo Đạo Trung Quốc. Vì thế, mặc dầu có nhiều người Châu Mỹ theo Đạo Tin Lành và đã nổ lực đem Tin Lành truyền bá trên thế giới ta cũng không nên nói Đạo Tin Lành là Đạo của Mỹ, không dính dáng đến người Việt Nam. Điều quan trọng là chúng ta hãy tìm hiểu xem Đạo Tin Lành đã tin gì, giảng gì và đã đem lại được ích lợi gì cho nhân loại nói chung và cho nhân loại theo Đạo Tin Lành nói riêng.

Người Việt Nam là dân tộc kính sợ Đức Chúa Trời. Ngày xưa, hàng năm các vua chúa thay mặt toàn dân tộc lập đàn tế Trời (các vua triều Nguyễn tế tại Đàn Nam Giao) và dân chúng thường lập bàn Thiên ở trước nhà để cầu Trời. Gặp khó khăn người Việt thường kêu: Trời ơi! Nhờ Trời! Cầu Trời! Sống thì ăn cơm Trời, uống nước Trời, chết thì nói: Về Chầu Trời hoặc Trời kêu ai nấy dạ. Câu ca dao sau đây là một bằng cớ:

Lạy Trời mưa xuống
Lấy nuớc tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm.

Đa số người Việt Nam sống bằng nông nghiệp đã biết rõ có được cơm no áo ấm là nhờ ơn Trời. Biết có Đức Chúa Trời nhưng không biết thờ Trời cho đúng cách là điều đáng tiếc. Biết ơn Trời nhưng không biết làm thể nào cho đẹp lòng Trời là điều đáng thương. Như vậy người Việt Nam nên quay về thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách Ngài chỉ dẫn qua Đạo Tin Lành là hợp tình, hợp lẽ và cần thiết lắm thay.

3. Phải chăng Đạo Tin Lành cũng là Đạo tin theo để làm lành?

Mọi người Việt Nam đều biết phân biệt điều lành, điều dữ. Ai cũng biết “Ở hiền gặp lành”. Ai cũng muốn ăn ngay ở lành. Chịu ảnh hưởng của Nho Giáo, người Việt Nam còn biết quí trọng đạo làm người, biết ơn quân sư phụ, biết giữ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đa số người Việt Nam đều sùng Đạo, không theo tôn giáo này thì cũng theo tôn giáo khác. Từ đó nhiều người quan niện cho rằng Đạo nào cũng tốt, Đạo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, vậy Đạo Tin Lành cũng là Đạo tin theo để làm lành thì không cần theo, vì mình đã có Đạo rồi, thậm chí Đạo của mình đang có đông người theo.

Thực ra, chữ Tin Lành có nghĩa là tin tức tốt lành chứ không có nghĩa là tin theo để làm lành. Nếu truyền thêm cho người Việt một Đạo dạy làm lành nữa thì cũng bằng thừa vì từ nhỏ cho đến lớn, ai cũng biết cần phải làm lành. Vấn đề ở đây là loài người cần ý thức làm lành nhưng không đủ khả năng làm lành cho trọn. Thánh Phao-lô đã diễn tả sự thật này như sau: “Tôi biết điều lành nhưng chẳng ở trong tôi đâu, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn, vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. Vậy tôi thấy có một luật này trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi.” (La-mã 7:18-21). Một thánh nhân mà còn tự thú như vậy huống chi chúng ta là phàm nhân. Sở dĩ chúng ta không làm lành trọn được vì luật tội lỗi đang hiện diện trong mỗi con người chúng ta, chiếm ngự tâm hồn chúng ta, khiến chúng ta không có khả năng làm lành cho trọn. Dù xuất gia nhưng chỉ một lần ta lỡ làm ác thì cũng luống công. Kinh Thánh chép: “Người nào giữ toàn bộ luật pháp, nhưng chỉ phạm một điều là coi như đã phạm tất cả. ” (Gia-cơ 2:10). Dù ta chưa làm gì nên tội đối với luật pháp của loài người thì trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta vẫn bị kể là tội nhân. Dù ta có làm được bao nhiêu việc lành đối với đời, thì trước mặt Chúa vẫn còn thiếu hụt, không có gì đáng kể. Những việc công bình của loài người đều được Ngài xem như “áo nhớp”. Tiêu chuẩn của Chúa là trọn vẹn, mà loài người thì bất toàn. Mọi người đều phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Thánh Phao-lô làm chứng tiếp:“Thật bất hạnh cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi ách nô lệ của thể xác tội lỗi hư hoại nầy?” Rồi ông vui mừng phát biểu: “Tạ ơn Thượng Đế, tôi được giải cứu nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.” (La-mã 7:24-25). Cảm tạ Chúa, vì Chúa biết rõ loài người không có khả năng làm lành cho trọn, cũng không có khả năng tự mình giải thoát ra khỏi quyền lực ghê gớm của tội lỗi nên “đang khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội”. Nhờ sự chết đền tội của Chúa Cứu Thế Giê-xu và quyền năng của Đức Thánh Linh, khi một tội nhân ý thức tội, ăn năn tội, quyết tâm từ bỏ tội quay về cùng Chúa, thì Chúa ban quyền năng tái tạo người đó trở nên người mới, đồng thời ban cho người đó khả năng để vừa muốn, vừa làm những việc lành mà trước đó họ không làm được bằng sức riêng. Đây chính thật là một “tin tức tốt lành”, là giải pháp tuyệt hảo, là cơ hội tốt nhất cho mỗi một người chúng ta.

Nếu hiện nay quý vị đang theo một tôn giáo dạy người ta làm lành, đó là điều tốt vì đã nói lên quyết tâm làm lành lánh dữ của quý vị. Thế nhưng chính trong quá trình cố gắng như thế, quý vị cũng đã nhận ra sự thật là mình làm lành không trọn, lòng không bình an, không biết chắc nỗ lực đến mức nào mới đủ để được lên thiên đàng. Tất cả mọi người đang tự tu, tự cứu rỗi, đều đó cùng một tâm trạng bất an như thế. Người Tin Lành thì luôn tin chắc rằng mình đã được cứu rỗi, với tâm trạng bình an, hy vọng. Người Tin Lành tin chắc khi qua đời là về ngay với Chúa trên thiên đàng. Tại sao dám chắc như vậy? Tại vì sự cứu rỗi là quà tặng do Chúa Giê-xu làm trọn cho chúng ta xong xuôi và ban tặng cho chúng ta. Quà tặng này không phải do chúng ta làm gì xứng đáng để nhận lãnh nhưng do lòng thương xót vô hạn của Chúa ban cho. “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là đời sống vĩnh cửu trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta”. Đức Chúa Trời đã tuyên hứa như thế và Ngài là Đấng thành tín, không bao giờ thất hứa. Rất mong quý vị tiếp nhận Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giê-xu để hưởng được ơn cứu rỗi, rồi mới được hưởng bình an, thỏa lòng, yên tâm và sự sống mới do Chúa ban cho.

4. Đạo Tin Lành khác với Đạo Công Giáo La-mã như thế nào?

Thật ra câu hỏi này nên để quý vị tự tìm hiểu thì hơn vì câu trả lời nào của người Tin Lành đối với người Anh em Công Giáo cũng bị cho là có tính chủ quan.

Đạo Tin Lành và Đạo Công Giáo có cùng một gốc mà ra. Cả hai đều có cùng niềm tin nơi Đức Chúa Trời căn cứ trên Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng sự khác biệt chính giữa hai giáo hội này là vị trí và thẩm quyền mỗi bên dành cho Thánh Kinh. Mặc dầu người Công Giáo tin rằng Thánh Kinh được Đức Chúa Trời soi dẫn, họ cũng tin rằng truyền thống của Giáo Hội trải qua dòng lịch sử do các Giáo Hoàng và Giáo Hội Nghị lập thành có giá trị quyết định trong vấn đề niềm tin giáo lý. Vì đó theo năm tháng Giáo Hội Công Giáo La Mã đã thêm những giáo lý không có trong Kinh Thánh.

Ta có thể nhắc qua một số giáo lý thêm thắt đó như sau: Cầu Nguyện trực tiếp với Đức Mẹ, với các thánh và các thiên thần (năm 600); mua chứng thư xá tội để giảm thiểu thời gian ở ngục luyện tội (năm 1190); xưng tội với linh mục (năm 1215); Thánh Kinh được liệt vào danh sách cấm giáo dân đọc (Toulouse năm 1229); ngục luyện tội từ giáo lý nâng lên thành tín lý bởi Công Đồng Florence (năm 1438); truyền thống giáo hội được thừa nhận có uy quyền tương đương như Kinh Thánh bởi Công Đồng Trent (năm 1545); Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được Giáo Hoàng Pius IX công bố năm 1854; Sự Vô Ngộ (không sai lầm) của Giáo Hoàng được Công Đồng Vatican công bố năm 1870; Giáo Hoàng Benedict XV công bố Đức Mẹ là Đấng đồng cứu chuộc với Chúa Giê-xu và Đức Mẹ về trời được Giáo Hoàng Puis công bố năm 1950.

Người Tin Lành chỉ tôn trọng những truyền thống nào của Hội Thánh phù hợp với Kinh Thánh. Người Tin Lành muốn trở về cội nguồn với đức tin và hình thức sống đạo theo như Kinh Thánh chỉ dẫn, không thêm, không bớt.

Vào thời Cải Chánh Giáo Hội (từ khoảng năm 1500 đến 1650) ở châu Âu, một Tu sĩ Công Giáo La-mã người Đức tên là Martin Luther, đã tái khám phá ra tín lý xưng bởi đức tin do sứ đồ Phao-lô viết trong Thư La-mã thuộc Thánh Kinh Tân Ước. Luther lý luận, “Nếu một người được xưng nghĩa (tức được kể trắng án) khỏi tội lỗi duy bởi đức tin đặt nơi Chúa Giê-xu như Thánh Kinh khẳng định, thì cần gì ta phải đi hành hương, phải tự hành xác để thú tội, cần gì phải qua ngục luyện tội và chịu các phép bí tích sau cùng?” Vì những khám phá của Luther đã cắt đứt truyền thống của Công Giáo La-mã nên ông bị Giáo Hội thời bấy giờ dứt phép thông công. Tuy nhiên phần lớn người Đức đương thời đã lũ lượt kéo đến nghe ông giảng Thánh Kinh, từ đó Giáo Hội Lutheran đã được thành lập và phát triển cho đến nay. Rồi những nhà thần học khác như John Calvin, một người Pháp, cũng đã thách thức các giáo huấn của Công Giáo La-mã và từ ảnh hưởng của Calvin, các Giáo Hội Cải Cách, Giáo Hội Trưởng Lão đã hình thành. Về sau các Giáo Hội Anh Quốc, Giáo Hội Báp-tít, Giám Lý, rồi Ngũ Tuần… được thành lập. Những Giáo Hội này, xuất phát từ sự phản kháng (protest) nhằm cải cách Giáo Hội Công Giáo La-mã nên thường được gọi chung là Giáo Hội Protestant hay Hội Thánh Tin Lành. Người Công Giáo Việt Nam trước đây gọi người Tin Lành là Thệ Phản. Ngày nay người Công Giáo gọi người Tin Lành là Anh Em Ly Khai.

Điều đáng mừng là giữa lòng Giáo Hội Công Giáo đang có phong trào canh tân, trở về nghiên cứu Thánh Kinh, canh tân ân sũng và nỗ lực truyền bá Phúc Âm, đồng thời không ngừng cải thiện mối quan hệ với người Tin Lành trong phong trào hiệp nhất.

Thiết tưởng sự kiện có nhiều Giáo phái khác nhau trong Cơ Đốc Giáo chẳng khác nào một cây cổ thụ có nhiều cành, nhánh. Vấn đề quan trọng là cây này có bóng mát che cho bản thân ta trong cuộc đời đang oi bức, trái cây này có ngon ngọt bổ ích cho linh hồn ta đang đói khát hay không. Hơn nữa nhánh cây ấy có đang lưu chuyển sự sống từ gốc cây sống thiêng liêng là Chúa Cứu Thế hằng sống hay không. Giáo phái hay là nhà thờ không cứu rỗi được linh hồn của chúng ta. Chỉ có Chúa Cứu Thế Giê-xu mới có quyền năng cứu vớt chúng ta ra khỏi tội lỗi và đưa chúng ta đến thiên đàng mà thôi. Việc lựa chọn một Giáo Phái để tham gia là tùy hoàn cảnh và ý thức lựa chọn riêng của mỗi người. Điều quan trọng là quý vị nên sáng suốt lựa chọn cho mình một Hội Thánh trung tín rao giảng và làm theo Lời Chúa, thể hiện đức tin và tình yêu thương như Chúa Cứu Thế Giê-xu dạy dỗ, ban truyền.

5. Đạo Tin Lành khác với các tôn giáo Á Đông như thế nào?

Đạo Tin Lành và các tôn giáo Á Đông có nhiều điểm dị biệt về niềm hy vọng.

      Thượng Đế của tư tưởng Á Đông không mang ngôi vị các biệt, còn Đức Chúa Trời của Thánh Kinh thì có ngôi vị. Ngài là một Đấng toàn năng, toàn tri, toàn tại, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi một số tôn giáo Á Đông, Thượng Đế là vạn vật và vạn vật là Thượng Đế, còn Thánh Kinh thì dạy rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa độc lập với các tạo vật do Ngài dựng nên.

Luật về nghiệp (karma) là một tín ngưỡng phức tạp nơi nhiều tôn giáo Á Đông. Nghiệp tốt hay những việc làm tốt là phương thế duy nhất để con người tự giải thoát khỏi vòng luân hồi, còn nghiệp xấu sẽ làm cho con người tái đầu thai vào những kiếp thấp hơn những kiếp trước đây. Tóm một lời là con người phải nỗ lực tự giải cứu bằng việc làm, công đức. Trong khi đó, Thánh Kinh dạy rằng, “Đức Chúa Trời cứu rỗi không phải vì công đức chúng ta, nhưng bởi lòng nhân từ Ngài ban Thánh Linh tẩy sạch tội lỗi và đổi mới chúng ta.” (Tít 3:5). Các việc làm của người tín hữu có chỗ đứng quan trọng nhưng đó là kết quả xuất phát từ sự cứu rỗi người ấy đã nhận được từ nơi Chúa và làm cách thể hiện lòng biết ơn của người ấy đối với Chúa. Việc làm lành và công đức không phải là điều kiện để được cứu rỗi từ Chúa.

Thánh Kinh cũng không hề dạy rằng có cơ may thứ hai cho việc đầu thai chuyển kiếp. Mỗi người là một con người độc đáo, mỗi người có linh hồn riêng và phải chịu trách nhiệm riêng trước mặt Đức Chúa Trời trong ngày phát xét thế gian. Thánh Kinh quả quyết, “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét.”(Hê-bơ-rơ 9:27). Như vậy không có chuyện đầu thai chuyển kiếp.

Đối với các tôn giáo Á Đông, lịch sử không có mục đích hay ý nghĩa gì cả, đó là cuộc đấu tranh không bao giờ dứt. Trong khi đó, Thánh Kinh phát họa một Đức Chúa Trời siêu việt đang điều khiển dòng lịch sử tiến đến mục đích tối hậu là thiết lập Vương Quốc vĩnh cửu do Chúa Giê-xu cai trị trong sự chính trực, công bình.

Điểm khác biệt nữa là các tôn giáo Á Đông thường thờ hình lạy tượng là điều Chúa cấm. Thánh Kinh gọi đó là hình thức “thờ phượng vật thọ tạo thay cho Đấng Tạo Hóa là Đấng đáng được tôn thờ muôn đời.” Trong khi đó, Chúa Cứu Thế dạy rõ: “Đức Chúa Trời là thần nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Ngài.” Thánh Kinh khẳng định, “Nguyện sự tôn quí vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men.” (I Ti-mô-thê 1:17).

Tất cả những tôn giáo Á Đông cũng như các tôn giáo khác trên thế giới đều là những cố gắng của con người đi tìm Đấng Thượng Đế, trong khi đó Đạo Tin Lành còn tiết lộ sự cố gắng của Đức Chúa Trời tìm kiếm con người qua thân vị Chúa Cứu Thế Giê-xu. Con người hữu hạn không tìm được Đấng vô hạn, nhưng Đấng vô hạn có thể tìm đến với con người. Con người không thể lấy sức riêng để đến thiên đàng, nhưng Đức Chúa Trời Toàn Năng có thể đem thiên đàng ban tặng chúng ta.

Vì vậy, điều mong ước sâu xa của chúng tôi là quý vị vui hưởng được phước hạnh của nước thiên đàng ngay trong đời này do Chúa Cứu Thế sẵn ban cho những người tin cậy và vâng lời Ngài. Chúa Cứu Thế muốn quý vị sống một đời sống sung mãn trong đời này và hy vọng ngời sáng chắc chắn cho đời sau. Phước hạnh nầy sẽ xảy đến với quý vị ngay khi quý vị tin cậy Chúa Giê-xu. Xin quý vị hãy suy xét cho kỹ giữa triết lý đời này với chân lý Thánh Kinh để chọn cho mình con đường sống, bảo đảm yên tâm không bao giờ hối tiếc. Triết lý là sản phẩm của con người còn chân lý là sự mặc khải của Đức Chúa Trời soi dẫn lối chúng ta.

6. Tôi đã có Đạo rồi, tại sao tôi cần phải theo Đạo Tin Lành?

Người Việt ta hay nói theo đạo là đi đạo. Điều này ngầm ý nói đến một con đường. Đạo là con đường. Nhưng con đường ta đang đi dẫn ta đến đâu, có đúng đường, có đạt đến mục đích mong muốn hay không là điều vô cùng quan trọng. Con đường nầy quyết định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Giả sử như ta đang đi đường đến một nơi mà ta chưa hề đặt chân tới, khi có người địa phương biết ta đi lạc và bảo ta đi lại cho đúng hướng thì ta sẽ làm chi? Dĩ nhiên ta cần điều chỉnh lại cho đúng hướng đi. Hoặc giả ta đang sắp chết đuối giữa biển khơi, nguy hiểm đến tánh mạng, nếu có người đem tàu đến cấp cứu đến cứu giúp, ta lại từ chối hay sao? Hỏi tức là trả lời rồi vậy.

Các giáo chủ đời này thường chỉ hướng cho chúng sinh tự đi tìm chân lý hoặc bảo hãy tự thắp đuốc mà đi, nhưng Chúa Cứu Thế Giê-xu thì tuyên bố rõ, “Ta là con đường, Chân lý và Nguồn sống. Nếu không nhờ Ta, không ai đến được với Cha” (Giăng 14:6). Thử hỏi ai biết rõ đường lên thiên đàng phước hạnh cho bằng Chúa Giê-xu là Đấng từ trời giáng thế? Ai có quyền năng để đưa chúng ta vào thiên đàng cho bằng Chúa Giê-xu là Đấng đã chiến thắng sự chết và sống lại khải hoàn? Kính mong quý vị suy xét để chọn con đường theo Chúa Giê-xu là con đường duy nhất đúng trên thế gian nầy. Kinh Thánh chép, “Chẳng có sự cứu rỗi trong một Đấng nào khác, vì ở dưới trời nầy chẳng có Danh nào khác ban cho loài người để chúng ta nhờ đó mà được cứu.” (Công Vụ Sứ Đồ 4:12).

Có nhiều người muốn trở lại cùng Chúa nhưng còn ngại ngùng vì một vài mối lo sợ không chánh đáng. Chẳng hạn, sợ thần linh hoặc ông bà trách phạt, sợ người ta nói không trung thành với tôn giáo cũ, sợ bạn bè cho là mình yếu đuối, sợ tội lỗi nhiều không biết Chúa có tha không, sợ theo Chúa thì đành bỏ hết những thú vui tạm bợ trần gian… Nhưng thưa quý vị chúng ta trở về Đức Chúa Trời là Cha, là Đấng Tối Cao thì còn sợ ai? Ngài sẽ tiếp đón, bảo vệ chúng ta và dìu dắt chúng ta đi. Còn gì phước hạnh hơn khi tội chúng ta được Chúa tha, linh hồn được Chúa cứu? Trái lại còn gì khủng khiếp hơn khi lìa đời kêu: “Trời ơi!” chỉ để nghe được Chúa phán: “Ta không hề biết ngươi” hoặc “Hãy quăng nó ra ngoài là nơi có khóc lóc và nghiến răng”.Chúa Giê-xu đã từng cảnh cáo, “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Ma-thi-ơ 16:26).

Có nhiều người hiện không thiếu gì về phương diện vật chất, nhưng phần tâm linh thì khô khan, trống vắng. Đời sống gia đình và bản thân thì buồn bã, cô đơn, sống không thấy ý nghĩa. Xin hãy nghe Chúa Giê-xu mời gọi: “Những ai đang nhọc mệt và nặng gánh ưu tư, hãy đến với ta, ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi. Ta có lòng khiêm tốn, dịu dàng; hãy mang ách với ta và học theo ta, các con sẽ được an nghỉ trong tâm hồn. Vì ách ta êm dịu và gánh ta nhẹ nhàng.” (Mathiơ 11:28-30).

Thánh Kimh cho biết khi một người từ bỏ con đường lầm lạc và quay trở về cùng Chúa thì cả thiên đàng sẽ hoan hỉ vui mừng. Chúa Giê-xu tiết lộ, “Ta nói cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn năn.” (Lu-ca 15:10). Cụ thể nhất là mọi người thật lòng trở về cùng Chúa đều hưởng được sự bình an và vui mừng khôn xiết. Kinh Thánh chép về người thâu thuế thành Giê-ri-cô là Xa-Chê, người cai ngục thành Phi-líp, người đội trưởng quân đội La-mã ờ thành Sê-sa-rê… Những người nầy đều đã cùng với cả gia đình mình mở tiệc ăn mừng vì được trở lại cùng Chúa. Kinh Thánh cũng chép người phụ nữ Sa-ma-ri đã hớn hở vui mừng giới thiệu Chúa cho toàn thể đồng bào của mình sau khi được đích thân gặp Chúa. Kinh Thánh còn mô tả phước hạnh của người quay về cùng Chúa chẳng khác nào người tìm kho báo, người con đi hoang trở về được cha tiếp đón, người mù được sáng, người nô lệ được tự do, người mắc nợ lớn được tha, người chết được sống lại. Niềm vui nầy cũng rất thật và sâu sắc đối với hàng tỉ người đang theo Chúa trên thế khắp thế giới ngày nay. Rất mong quí vị cũng từng trải được kinh nghiệm bình an vui thỏa nầy trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.

MS NGUYEN VAN HUE SUU TAM